Thông báo

Collapse
No announcement yet.

 Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền

Collapse
X

 Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  •  Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền


    Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền

    Tình Hoài Hương
    *


    Thật tình tôi không thể nào hiểu nỗi tại sao vận nước Việt Nam lại trở nên quá đen tối: sau khi hiệp định Genève 1954 diễn ra kể từ ngày 26 tháng 4 năm 1954 - rồi bản Hiệp Định được ký kết và kết thúc cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954. Thành phần tham dự: Anh, Mỹ, Liên Xô, Pháp, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Laos, Cambodia, Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Phía Quốc Gia Việt Nam ban đầu do ông Nguyễn Quốc Định làm Trưởng Đoàn. Sau, ông Trần Văn Đổ thay thế. Đáng chú ý: Ông Trần Văn Đổ, Trưởng Đoàn Quốc Gia Việt Nam đã lên tiếng phản đối sự chia cắt đất nước. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (miền Nam Việt Nam) không ký Hiệp Định. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc Việt Nam) do Phạm Văn Đồng làm Trưởng Đoàn. Phái đoàn Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Genève.

    Kể từ ngày 21-7-1954 – Khi miền Bắc Việt Nam ký Hiệp-định Genève xé đôi lãnh thổ Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 và cầu Hiền Lương Bến Hải làm ranh giới, để chia lìa tách bạch hai miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam ra đôi ngả phân ly nghẹn ngào:

    - Ngày 11-11-1960 – Đại-tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chánh cùng Trung-tá Vương Văn Đông ở Liên-đoàn Dù, và Thiếu Tá Nguyễn Triệu Hồng, Đại-úy Phan Lạc Tuyên: đã đảo chánh nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà hụt; thì “chiến tranh nội bộ” bắt đầu manh nha quyết liệt rối rắm bùng nổ liên miên. Từ xưa tới nay sự thôn tính đất đai, tranh giành quyền lực, thế lực, vinh hoa, là mạng lưới quyến rũ dẽo dai và khổng lồ. Nước càng trong thì không có cá, dù̀ lòng người đơn giản, phước thiện, trong sáng và cao cả; ấy thế mà nếu du nhập vào hệ thống chính trị, sau khi bị cuốn hút vào cung cầu đó, thì thật khó lòng ít có ai rứt ra được.

    - Ngày 27-2-1962 - Có 2 chiếc khu trục A1 Skyraider dội bom dinh Độc Lập, do Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn văn Cử ném bom bắn cháy dinh Độc Lập. Phi cơ của ông Phạm Phú Quốc bị bắn rớt trên sông Sài Gòn, ổng đã vô tù, tất cả bom đạn còn nguyên, nghĩa là ông ta chưa kịp thả trái bom nào. Ông Cử đào thoát bay mút qua hướng Nam Vang, dân chúng bàn tán là ổng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!?

    - Sau biến cố 02-11-1963 – Tổng-thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị thảm sát. Trải qua bao thăng trầm chính trị sục sôi… thì nền Đệ II Cộng Hòa có Tổng-thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi.

    * Ngày 8-3-1965 - Kể từ khi có đoàn Thủy-quân Lục-chiến Mỹ tiên khởi, đông đúc khoảng 3.500 người rầm rộ đổ bộ lên đất liền tại Đà Nẵng, Mỹ viện cớ muốn giữ “an ninh cứ địa”. Do tướng Maxwell Taylor, thỉnh thoảng hút xì gà Schimmelpennick làm đại sứ Sài Gòn, ông dẫn đầu một cuộc phô trương cường quốc Mỹ, để thị oai với các nước tụt hậu, chậm tiến, đang có chiến tranh. Rồi…

    * Ngày 16-8-1965 - Chính phủ Nguyễn Khánh chủ trương thành lập Hiến Chương Vũng Tàu. Trong nước loạn xạ bởi nhiều phe phái chính trị phản đối chính quyền đã hoạt động ráo riết. Sau đó có nhiều bất đồng, các đảng phái, sinh viên lục đục nội bộ, nên tan đàn rẽ đám. Hội-đồng Quân-lực Cách-mạng truất phế ông Nguyễn Khánh, cho ông lưu vong ra ngoại quốc làm đại sứ.

    * Ngày 9-5-1969 - Hạ-sĩ Henry Kissinger đi lính trong Đệ-nhị Thế-chiến, sau lên làm cố-vấn an ninh quốc gia cho Tổng-thống Richard Nixon. Về sau tiến sĩ Henry Kissinger khai mạc hoà đàm Ba Lê (không có chính phủ miền Nam hay Quân-lực miền Nam). Suốt thời gian hoà đàm dưới sự giám sát chặt chẽ của Nixon, ngoại trưởng Kissinger “ráo riết đi đêm” với quân Bắc Việt.

    - Người dân luôn dán mắt nhìn vô ti vi trắng đen, theo dõi công ty Pecten Việt Nam (là chi nhánh của Shell) đã sản xuất khoảng 1.500 thùng dầu thô/ngày, trong giếng dầu mang tên Pioncer sâu 4.500 feet dưới lòng biển. Hoan hô đại thắng!

    - Một phái đoàn Mỹ có tên Project Concern, và phái đoàn Thanh-Thương-Hội Việt Nam do ông Lê Bá Công làm hội trưởng, hướng dẫn phái đoàn săn sóc y tế cho đồng bào Thượng tại miền Nam Việt Nam. Phái đoàn nầy được đồng bào kính trọng và hoan hô nồng nhiệt.

    * Ngày 27-1-1973 – Trong chương 2 điều 2 tại nhiều năm hội nghị, sau đó Hiệp định Ba Lê đã ký kết đình chiến: Ngưng bắn. Ấy thế mà vào ngày 9 tháng * Ngày 9 Tháng 3 năm 1974 Việt-cộng câu súng 81ly vào trường Tiểu-học Nhị Quý, Cai-Lậy, Tỉnh Định Tường, giết 32 em học sinh nhỏ, và hơn 50 em học sinh khác đã bị thương la liệt và trầm trọng. Vô số trẻ em bị chết oan, thật đau đớn vô cùng thảm thiết.

    * Ngày 11-3-1975 - Mất Ba Mê Thuột. Thiếu-tướng Phạm Văn Phú, Tư-lệnh Quân-đoàn 2/Quân-khu 2, ra lệnh quân đội triệt thoái khỏi Pleiku – Kontum (do chỉ thị của TT Nguyễn Văn Thiệu).

    * Ngày 19-3-1975 – Một Tiểu-đoàn của Trung-đoàn 43 Bộ-binh đóng chốt phòng ngự tại Định Quán, quanh vùng phụ cận núi Chứa Chan. Gia Rai, Tiểu-đoàn nầy anh dũng đánh trả đối phương rất phi thường.
    * Ngày N+5, 21-3-1975 triệt thoái cuối cùng Lực-lượng Quân-đoàn 2 khỏi Cao Nguyên, trên tuyến đường Liên-tỉnh lộ B.
    * Ngày 22-3-1975 - Tỉnh Quảng Đức thất thủ.
    * Ngày 23-3-1975 – Công-binh VNCH làm xong chiếc cầu dã chiến. Lực-lượng Quân-đoàn 2 cuối cùng vượt qua sông Ba, triệt thoái về Phú Yên.
    * Ngày 25-3-1975 – Các đơn vị Quân-đoàn 1/Quân-khu 1 (Việt Nam Cộng-Hoà) triệt thoái ra khỏi Huế.
    * Đêm 28-3-1975 - Lực Lượng hùng hậu của Quân-đoàn 1 do tướng Ngô Quang Trưởng lãnh đạo, đã triệt thoái khỏi Đà Nẵng.

    * Ngày 8-4-1975 – Các phi trường Tân Sơn Nhất. Cần Thơ. Biên Hoà, có nhiều chiến đấu cơ F 5 – oanh tạc cơ A 37. Không một ai mà không nghe đồn ầm lên là: từ Lâm Đồng dọc theo rặng trường sơn, sông La Ngà chảy từ khu Tánh Linh, qua phía nam Định Quán, Rừng Sát ra cửa biển Cần Giờ: Đang bị đe doạ trầm trọng. Người ta lại đồn máy bay oanh tạc dinh độc lập hụt hay sao đó? Bây giờ thì chuyện không nói có, chuyện có nói không. Chả ai có thể đi đâu kiểm chứng, vì mọi ngã đường đông nghịt người không thể chen chân. Nhưng than ôi! Đúng thế thật, Trung úy Nguyễn Thành Trung, quê ở Bến Tre, đã bay chiếc F5 cất cánh từ Biên Hoà về thả bom xuống dinh Độc Lập. Phi cơ mang bốn quả bom. Y thả hai quả bom trước bị rơi ra ngoài sân dinh.

    * Việt Nam Cộng Hoà có Sư-đoàn 18 tăng cường Lữ Kỵ-binh: Sư-đoàn 5 Thiết-giáp. Các Liên-đoàn Biệt Động Quân từ Quân-khu 1, chuyển về Quân-khu 2 để bảo vệ Xuân-Lộc, do Chuẩn-tướng Lê Minh Đảo là Sư-đoàn-trưởng Sư-đoàn 18 đảm nhiệm. Trận đánh vô cùng ác liệt bắt đầu xảy ra giữa quân đội miền Nam Việt Nam, với Quân-đoàn 4 và Sư-đoàn 6 Chủ-lực Quân-khu 7 của Cộng-sản Bắc Việt.

    * Ngày 10-4-1975 – Hai Trung-đoàn 43 và 48 (của Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà) và một Lữ-đoàn Dù. Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh, từ Biên Hoà ra Xuân Lộc tiếp ứng. Giao tranh ác liệt dữ dội mạnh mẽ. Đường 12 bị cắt đứt là: Xuân Lộc > Biên Hoà. & Xuân Lộc > Bà Rịa.
    * Ngày 17-4-1975 - Mất Phan Rang.
    * Ngày 18-4-1975 - Mất thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh Bình Thuận. Thành phần chính phủ do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo đã xảy ra đột biến. Mặc dù vậy tổng thống Thiệu họp báo, lên Truyền-thanh, Truyền-hình đọc hiệu triệu vấn an quốc dân đồng bào. Đài phát thanh cho nhai đi nhai lại bản tin nầy suốt cả tuần.
    * Ngày 19-4-1975 – Bình Tuy sống trong sôi động. Giao tranh ở tuyến đường số 1, từ phía Đông và Đông-Bắc Sài Gòn, tới Trà Võ. Bàu Nâu. Gò Dầu Hạ.
    * Ngày 20-4-1975 – Khu Rừng Lá, (cách Xuân Lộc độ 20km) coi như mất liên lạc: Bộ Tổng Tham Mưu. Sân Bay Tân Sơn Nhất. Bộ Tư-lệnh Biệt-khu Thủ-đô. Tổng Nha Cảnh-sát, vân vân… (Thủ đô Sài Gòn có 12 Quận Nội-thành: Bình Thạnh. Phú Nhuận. Tân Bình. Gò Vấp. 6 quận ngoại thành: Hóc Môn. Củ Chi. Thủ Đức. Bình Chánh. Nhà Bè. Duyên Hải) > Đều báo động đèn đỏ 100%.
    * Bộ Giáo Dục ra lệnh đóng cửa không thời hạn tất cả các trường: Tiểu-học. Trung-học. Đại-học trong toàn lãnh thổ tại miền Nam Việt Nam.
    * Ngày 21-4-1975 - Hằng triệu triệu người già trẻ lớn bé ở miền Nam Việt Nam chồm tới bu quanh nhìn sững vào vô tuyến truyền hình. Toàn dân lắng nghe miết mãi. Khoảng nửa giờ sau vị nguyên thủ quốc gia: Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ chức, ông trở về với quân đội Việt Nam Cộng-Hoà. Ôi! Bàng hoàng sững sốt. Vì; hằng triệu trai trẻ lính tráng, quân đội và dân tộc Nam Việt Nam (có bốn nghìn năm văn hiến quyết chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên chiến trường) tin vào chính phủ Nguyễn Văn Thiệu mà. Từ khi nền Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đỗ, thì tất cả mọi thứ trên đời, trật tự xã hội bị đảo lộn tùng phèo sao?

    Hồi xưa, nhà bác học lẫy lừng Pierre Curie khám phá ra chất phóng xạ radium vào năm 1900. Và, trước khi ông Mc Robert Namara cho trắc nghiệm khai quang hằng loạt chất độc màu da cam (Agent Orange), để tiêu diệt cỏ, hay tiêu diệt đối phương (?!). Thì ngày nay, Tổng thống Thiệu đã lưu lại danh thiên cổ gì cho núi sông? Khi mà ông Trạng Trình đã nói: “Bắc hữu kim thành tráng. Nam hữu ngọc bích thành”. Cố mà gìn giữ Việt Nam keo sơn gắn bó. Thật ra, Tổng-thống Thiệu làm tổng thống hai nhiệm kỳ, đã thành lập đảng Dân Chủ. Nhiều lần Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền thanh và truyền hình mạnh mẽ đọc diễn văn; trong đó có những câu tuyệt vời bất hủ:

    - Đừng nghe những gì Cộng-sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng-sản làm!
    - Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng-sản.
    - Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng.
    - Đất nước còn, còn tất cả; Cộng-sản thắng, mất tất cả.
    - Tôi mà tham nhũng, thì cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong 3 ngày!
    - Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa, thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm, mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
    - Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
    - Sống không có tự do là đã chết.
    - Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng-sản.

    TT Nguyễn Văn Thiệu hùng hồn khẳng định tuyên bố “bốn không” rất chí lý:

    1.- Không thừa nhận Cộng-sản.
    2.- Không lập chính phủ liên-hiệp.
    3.- Không trung-lập-hoá miền Nam Việt Nam.
    4.- Không nhường một tấc đất cho Cộng-sản.

    * - Tin đồn đã rùm beng:

    1.- Việt Nam trung lập.
    2.- Chính phủ Việt Nam có ba thành phần.
    3.- Miền Nam Việt Nam bị miền Bắc “giải phóng” lan nhanh (chứ chả phải như lời Phó Tổng-thống Nguyễn Cao Kỳ hô hào: “Xung phong > Bắc Tiến”). Tổng thống Thiệu đã ủng hộ chương trình “Người cày có ruộng”, rầm rộ khuyến khích nông dân, củng cố lúa Thần Nông IR 3 và AR 8. Nhờ thế kho vựa miền Nam dư thừa lúa gạo. Việt Nam sản xuất gạo đi các nước. Sau năm 1967 do sự quậy phá của Cộng-sản Bắc Việt, nên nông dân thuộc các tỉnh miền Nam, miền Trung, Cao Nguyên, không thể cày cấy, gieo trồng nhiều. Do đó miền Nam Việt Nam bị khan hiếm lúa. Kinh tế hạn hẹp, Cộng thêm an ninh không an toàn yên ổn. Chính trị, kinh tế, tham nhũng, bè phái, bị đe doạ khiến miền Nam suy thoái trầm trọng. Bây giờ miền Nam Việt Nam phải nhập cảng gạo và “binh khí”, xin viện trợ tiền bạc vào Nam Việt Nam. Là vậy!

    * Tổng-thống Việt Nam Cộng-Hoà Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng-thống Trần Văn Hương lên thay thế! Thành phần nội-các do cụ Trần Văn Hương đảm nhận được mấy ngày vắn vỏi.

    - Ngày 22-4-1975 – Đường quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn > Cần Thơ. Các hướng Tây Bắc. Đông Đông Bắc. Đông Đông Nam. Tây Tây Nam bị cô lập với Sài Gòn.
    * Thứ Tư, ngày 23-4-1975 - Đô Đốc Noel Gayler Chỉ-huy-trưởng Hạm-đội Thái Bình Dương, đã lập cầu không vận Sài Gòn > Đệ Thất Hạm Đội (trong chương trình di tản người Mỹ và người Việt Nam ra đi), đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu, người ta nghe & phao tin sẽ di tản khoảng vài ba trăm ngàn người Hoa Kỳ và người Việt Nam. (!?)

    7 - Bảy Ngày Đen Tối Nhất: * Thứ Sáu, ngày 25-4-1975 -

    Đêm 24-4-1975 – Khói lửa bạo tàn đã gây đau khổ quá sức hằng triệu dân đen lầm than khốn đốn, cơ cực. Miền Nam Việt Nam dỡ sống tức tưởi, dỡ chết không kịp nhắm mắt, không thể há miệng than Trời! Chắc chắn là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu & thành phần nội-các đều nghe bùi tai về tướng cố vấn Lục-quân Mỹ Weyand gián tiếp khuyên chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân-đội miền Nam Việt Nam bằng mọi giá phải tử thủ! Toàn thể nam nữ thanh niên trai trẻ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã vâng lời ở lại giữ gìn từng pháo đài bị vây hãm, giành lại từng tấc đất quê hương ta, quyết phục vụ dân tộc và tử thủ vì dân tộc Việt Nam! Thì tin đồn chuyện Tổng-thống Thiệu bỏ rơi dân tộc, bỏ quê hương đất nước, chỉ là tin đồn nhảm nhí!

    Khi chung cuộc kết thúc trong bi thương thế ấy, ai nở ra đi phản bội dân tộc, ai lìa bỏ quê hương cẩm tú giàu đẹp sao? Ai đành cao chạy xa bay mưu tìm cho chính mình sự sống riêng, phủi tay trong thau men nước người cho đành?! Nơi chốn xa lạ đó, ai có dịp lắng nghe tiếng nói của hiền dân vô tội gào than kêu khóc? Ai tận mắt xem đồng bào đau thương bị cấp lãnh đạo bỏ rơi, dân đang sống quằn quại trong cơn lốc chính trị kinh hoàng vỡ vụn? Toàn dân sẽ chết thảm dưới cơn sóng thần cuồng phong dữ dội nhất lịch sử Việt Nam nầy. Họ làm sao đành đoạn phủi tay bỏ lại quê hương và dân tộc cho đành?!

    – Sáng sớm bạn Tonny Tơn từ Hạ Nghị Viện tất tả chạy về nhà, đã khẳng định với chúng tôi về việc Tổng-thống Thiệu và đoàn tùy tùng thân tín đã bôn tẩu bỏ nước ra đi!!! Người ta lại đồn ầm lên là ông Thiệu chở theo mấy chục tấn vàng của quốc gia (?!). Làm sao cõng cho nỗi hỉ?! Chuyện ấy rất khó tin, không bao giờ tin!

    Nhưng khuya Thứ Sáu, ngày 25-4-1975 đương kim Tổng-thống Trần Văn Hương lên đài Truyền-thanh Truyền-hình chính thức tuyên bố: - “Gia đình Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu, và một số thân tín trong chính quyền đương thời đã chính thức rời khỏi Việt Nam, bay đi ngoại quốc ngày 24-4-1975”. Ôi! Sự đau đớn ấy có thật ở phi trường Tân Sơn Nhứt là: Tướng Timmes, Đại-sứ Martin, một số đoàn tùy tùng đông đảo “viên chức lừng danh cao cấp nhất” của chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà đang làm cuộc “tẩu tướng”. Họ nôn nao lo âu đứng xớ rớ ở đó từ rất lâu, chờ đợi sẵn sàng để dọt đi.

    Một chiếc xe Mercedes chở ông Nguyễn Văn Thiệu từ bến Bạch Đằng chạy mau vào phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 21 giờ 30 đêm 24 tháng 4 năm 1975. Chung quanh “các ngài” đông đúc nôn nao ung dung ra đi, có lính Thủy-quân Lục-chiến Mỹ đứng dàn ngang dàn dọc bu quanh, để bảo vệ phái đoàn “các ngài” tống lên chiếc phi cơ C-118 lịch sử của Không-quân Hoa Kỳ. Ông Thiệu, Tướng Khiêm và đoàn tùy tùng lẹ làng tót lên máy bay, không hề ngoảnh lại. Hỡi Ôi là Trời ơi Đất ơi!!!

    * Thứ Bảy, ngày 26-4-1975 – Ông Khiêu Samphan dẫn một phái đoàn Trung Quốc từ Mimót Nam Vang, đi qua ngả Xa Cam. Tại đó có một Đại-tá Không-quân người Pháp, một Thiếu-tá Pháp, {họ trực thuộc Nha An Ninh Tình-báo hải ngoại Pháp (SDECE)}. Họ đưa phái đoàn Trung Quốc nầy vào ở trong toà Đại-sứ Pháp Sài Gòn (!?)

    * Vẫn ngày 26-4-1975 - Bão lửa chiến tranh xâm lược đã ùa vào xâm chiếm các khu sau đây: Long Khánh từ hướng Đông-Bắc đi Sài Gòn xa khoảng 80km. Long Khánh nằm giữa hai quốc lộ: 1 và 20- 105 kinh độ đông- 11 vĩ độ bắc, ở múi giờ 17 GMT – Giáp giới mặt Đông hướng Đông Đông Nam về Sài Gòn. Long Khánh có đỉnh núi Gia Ray cao 916 mét, là tấm bình phong che chắn thuận lợi cho toàn vùng. Muốn đi từ miền Cao Nguyên, hay từ miền Trung vào Sài Gòn xuống miền Tây, tất cả loại xe đều phải đi ngang qua vùng Long Khánh.

    Sông Ray từ phía Nam của núi Gia Ray có đường đi qua Xuyên Mộc. Trảng Bom. Hố Nai. Biên Hoà. Long Thành. Nước Trong. Đức Thạnh (Bà Rịa). Lang qua vùng Phước Tuy. Xuyên Mộc. Đất Đỏ. Về hướng Tây Tây Nam > Bến Lức. Tân An. Trung Lương. Tân Hiệp. Long Định. Giao lộ 4. Cai Lậy đi An Hữu. Xuống tới Lộc Giang. Vàm Cỏ Đông qua Tây Vĩnh Lộc. Mỹ Hạnh. Hướng Bắc thì các đoạn đường 16 Phú Lợi. Thủ Dầu Một. Tây Bắc về Đồng Dù. Hóc Môn.

    * Chủ Nhật, ngày 27-4-1975 - Mất thật rồi Bà Rịa. Phước Tuy. Nước Trong. Trảng Bom. Suối Đĩa. Cầu Rạch Chiếc. Rạch Cát. Cầu Bình Phước. Quán Tre lan ra tận xa lộ Đại Hàn.

    * Vẫn ngày 27-04-1975 – Người ta bịa đặt ra: Caritas. Usaid. Usom. Juspao. Cords. The Asia Foundation. IUS, chỉ là những thành phần ấy vào miền Nam Việt Nam do CIA cầm đầu trá hình. Nay họ lo đóng cửa và chuồn bay đi hết rồi! Tất cả mọi liên lạc trong nội thành Sài Gòn với ngoại thành, đi các Tỉnh, hầu như tê liệt, trục giao thông chính dẫn đến phi trường, hải cảng, các bến xe miền Đông, miền Tây, miền Trung, hoàn toàn ứ đọng và “bế quang tắc lộ”.

    Chao! Lúc đó thì người người tụm trăm tụm ngàn ở các nẽo đường chính, để nghe ngóng thăm dò tin tức. Toàn là những giả thiết, những tin đồn hoang mang. Người ta nhốn nháo, ồn cả lên, chèn ép nhau, xô đẩy nhau mong tìm đường chạy thoát thân, mong khỏi bị trụ lại nơi thành phố đông nghẹt người, từ các nơi dồn về Thủ-đô Sài Gòn hối hả, ngột ngạt, nghẹt hơi. Mọi tiếng động đều đinh tai nhức óc nổi hoài thâu đêm suốt sáng, không bao giờ ngưng. Người ta muốn điên vì đủ thứ chuyện thay đổi liên tục xảy ra từng giờ trên tivi, tin đã xấu càng xấu thảm xấu tệ biết bao! Toàn là những tin chả lạc quan vui vẻ gì!

    * Thứ Hai, 28-4-1975 – Sân bay Tân Sơn Nhứt to lớn đồ sộ sầm uất nhất miền Nam Việt Nam đến thế, có F5, hoặc A 15, A 37, C 130. Mà nay chỉ còn có một số ít bom Daisy Cutters, và những phi cơ dân sự thường dùng trong nội địa, có phi cơ dân sự cũ từ thời Pháp để lại dùng bay ra ngoại quốc (không kể những phi cơ quân sự hiện có). Ngày 28-4-1975 Phi công Nguyễn Thành Trung (y thả bom hai lần, lần đầu y thả ở dinh Độc lập bằng F5, y cất cánh từ phi trường Biên Hoà). Lần sau vào chiều 28/04/1975: Một tốp phi cơ Dragonfly A 37 (phi đội Quyết Thắng) do phi công Nguyễn Thành Trung & Nguyễn Văn Lục dẫn đường, ép Trần Văn On & Nguyễn Văn Xanh bay cùng mấy tên “giặc lái” Từ Đề, Mai Vượng, Hán Văn Quang, họ xuất phát từ phi trường Phan Rang bay về thả bom ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Nhiều tiếng nổ long trời lở đất đâu đó vang rền, khói lửa ngùn ngụt bốc cháy, đen nghịt thành phố.

    * Ngày 28-04-1975 – Tổng thống Trần Văn Hương lên nắm chính quyền quốc gia Việt Nam được bảy ngày (7) thì tuyên bố rút lui. Theo yêu cầu của Lưỡng-viện Quốc-hội Việt Nam Cộng-Hoà, cụ Trần Văn Hương sữa “hiến pháp, hiến dâng” chức “tổng thống không dân cử” cho Đại-tướng Dương Văn Minh. Chả hiểu sao cụ Hương tụt lẹ xuống, cho ông tướng Dương Văn Minh trồi lên nắm chính quyền nhanh như chớp!? Việt Nam như quả bóng tròn, khi thì đá dưới gót chân, khi đội đầu, khi quay giò lái đá qua đá lại rồi “sút” bóng lăn xuống vũng bùn.

    Một chính phủ sắp đến ngày diệt vong rồi hay sao, mà suy tàn đến độ xót xa thảm thiết tột cùng! Làm gì… thì cần ngồi lại thân thiện bên nhau và chia sẻ mọi quyền lực. Cần một lòng trung dũng đoàn kết vì nước vì dân. Thì toàn dân và toàn quân sẽ đứng vững như kiềng ba chân. Miền Nam Việt Nam sẽ không bị sụp đỗ toàn diện đâu. Lúc nầy "tổng thống" Dương Văn Minh nói rất hùng hồn: “Không bao giờ đưa miền Nam Việt Nam cho Việt-cộng”.

    * Thứ Ba, Ngày 29-04-1975 – ông Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất những người Mỹ cuối cùng phải đi ra khỏi đất nước Việt Nam. Chính lúc đó mất thật rồi: Nhơn Trạch. Thành Tuy Hạ. Cát Lái. Cầu Sông Buông. Long Bình. Biên Hoà. Phú Lợi. Lai Khê. Bến Cát. Bình Dương. Tân Uyên. Lái Thiêu. Gò Vấp: Hướng Tây Bắc Đồng Dù. Củ Chi. Hướng Tây Tây Nam Hậu Nghĩa. Tân Túc. Tân Hoà. Phú Lâm. Tin tức mỗi ngày mỗi giờ một xấu hẳn đi. Thế là trong thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen sợ hãi, càng tăng thêm nhốn nháo, xôn xao, xớn rớn hãi hùng hơn. Sài Gòn chìm trong biển tình đau thương tràn ngập mịt mùng. Sài Gòn như rắn mất đầu, người người xớn rớn ồn ào như núi lở, như động đất, như triều cường sóng thần vùi dập. Sài Gòn đã mất đi vẽ hào nhoáng thanh lịch sang trọng xa hoa của hòn ngọc viễn đông xưa.

    Thành phố ấy giờ đây ồn ào náo nhiệt hỗn loạn, bụi bặm và rác rưỡi ụ từng đống to tướng. Sài Gòn càng hổn loạn, hoang mang lo sợ bùng lên dữ dội. Nhất là những gia đình giàu sang quyền qúy ở Sài Gòn, cư dân gốc Trung Hoa đã và đang sinh sống ở Chợ Lớn hãi hùng huyên náo loạn cả lên. Thuở xa xưa người Hoa có quốc tịch Anh, được người Pháp (đang cai trị nước Việt Nam lúc bấy giờ), cho phép người Hoa từ Singapore nhập cư vào Việt Nam. Họ giàu xụ! Có tiền rừng bạc bể nên độc chiếm thị trường kinh tế, thương mại sầm uất ở một giang sơn Chợ Lớn!

    Dinh Độc Lập trước kia theo bản vẽ của kiến trúc sư Hermite, là dinh của Thống Đốc Pháp Charles Le Myre De Vilers rất uy quyền, xây cất năm 1875. Nhà văn Jules Boissiere đã nói: “Mounument don’t s’honoreraient avec raison les plus fíeres villes du monde” (Toà nhà ấy mà những thành phố kiêu hãnh nhất trên trái đất, sẽ lấy làm tự hào, thật là rất xác đáng). Dinh Dộc Lập và Sài Gòn đã lừng danh thành Hòn Ngọc Viễn Đông kể từ đó. Lúc xưa hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom đã cháy Dinh Độc Lập, (vào tháng 2 năm l962), làm hư hại dinh. Tổng-Thống Ngô Đình Diệm cho xây lại dinh Độc Lập. Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ Dinh Độc Lập do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ (đoạt giải Khôi Nguyên La Mã) đảm nhiệm. Theo thiết đồ của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thì có hai vị Công-binh là: Đại-tá Nguyễn Văn Quý, Đại-tá Điển điều động một đoàn Công-binh Việt Nam xây dựng. Sau đó hoàn tất tốt đẹp.

    Tiền đình dinh Độc Lập có quảng trường Pigneau De Béhaine, có đại lộ rộng thênh thang rợp bóng cây, có tượng Đức Mẹ ngự ở trước công viên Hoà Bình làm bằng đá hoa trắc. Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn kiến trúc theo lối roman và gothic, thế kỷ XII, thánh đường xây gạch trầm màu hồng có chiều dài 93m, rộng 35m, cao kể từ dưới đất lên ngọn tháp 57m, có sáu quả chuông to. Tất cả vật liệu chở từ Pháp qua Việt Nam, ngày 11 - 4 - 1880 là khánh thành.

    Thuở còn Tây cai trị nước ta, con đường có tên là Norodom chạy từ Dinh Độc Lập suốt tới khu Thảo Cầm Viên. Trong đó có Viện Bảo Tàng tên gọi là Blanchard de la Bross, do Pháp xây dựng năm 1929. Ấy thế mà… Hết rồi vẽ sạch sẽ bóng loáng thanh cao rộng rãi trên những phố Catina, đại lộ sang trọng Norodom xa xưa, nào là đường Lê Văn Duyệt. Trần Hưng Đạo. Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, vân vân… thậm chí cả đường Duy Tân cây dài bóng mát có từng tốp mười tốp hai ba mươi người tụ tập lo lắng, bồn chồn xôn xao, hốc hác, băn khoăn đứng ngồi không yên, kể từ khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích.

    * Ngày Thứ Tư hắc ám 30 tháng 4 đen tối năm 1975. Sài Gòn nóng như một hoả lò. Càng ghê rợn hơn, tin từ đài phát thanh Sài Gòn loan báo kể từ giờ phút nầy: Thiết quân luật 24/24. Tình hình thủ đô Sài Gòn từ sáng tinh mơ vắng lặng như tờ, không giống một thành phố chết, là gì!? Cho đến ngày hãi-hùng. Ngày đớn-hèn bi thảm. Ngày tối đen hắc-ám nhất lịch sử Việt Nam. Ngày đánh dấu than trầm-uất, thống-hận:

    - 8 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Sáng sớm, "tổng-thống" Dương Văn Minh lên Truyền-thanh Truyền-hình ra lệnh buộc các tuyến phòng thủ của Lữ-đoàn Liên-binh Phòng-vệ Phủ Tổng-thống không được nổ súng.

    - 9 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Ông Dương Văn Minh đọc diễn văn trên đài Truyền-thanh: Yêu cầu Toà Đại sứ Mỹ và văn phòng tùy viên DAO Hoa Kỳ, phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức.

    - 10 giờ:00 ngày 30-4-1975: Ông Dương Văn Minh leo lên làm Tổng thống được ba ngày! (3), ông liền “mở cửa khẩu” kêu gọi Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà: “Ở đâu, hãy giữ nguyên vị trí ở đó”. “Ngưng chiến. Chờ bàn giao chính quyền miền Nam Việt Nam cho lực lượng Mặt Trận Giải Phóng vào chiếm”. “Chuẩn bị giao nạp vũ khí cho đối phương”.

    * Ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Khi Trịnh Công Sơn hát lui hát tới bài “Nối Vòng Tay Lớn”, không có nhạc đệm trên đài phát thanh Sài Gòn. Không những là ngày uất hận “nối vòng tay tang chế lớn”, mà còn là ngày co giật từng cơn run kinh phong nhăn nhúm rúm ró teo tóp lại. Ôi! Quả đúng là có một phép lạ như điềm dự báo trước kia, khi con chim bồ câu đã đậu trên bàn thờ Đức Mẹ Fatima, ở trên khu vực giáo dân Đà Lạt, nơi thường cung nghinh rước ảnh tượng Đức Mẹ đến từng nóc nhà vào năm 1974. Người ta nói: - “Con chim bồ câu tượng trưng cho sự hoà bình”. Nay “hoà bình” đã đến thật rồi sao?!

    Dinh Độc Lập, vương cung Đức Bà và con đường Norodom độc đáo nầy, ấy vậy mà hôm nay đã do tướng Trần Văn Trà cầm đầu mặt trận Cách-mạng Lâm-thời 75 (!) tại Sài Gòn, cùng đoàn xe molotova rền rú ì ầm chạy đến cửa dinh Độc Lập đã mở lúc 11 giờ sáng. Khi ấy đại sứ Pháp tại Việt Nam là Jean Marie Mérilon, còn ở trong toà đại sứ ở trên “đường Thống Nhứt”. Ui chao! Chao ôi! Sụp đỗ toàn diện một chế độ. Bàng hoàng cả một dân tộc Việt Nam. Chiến tranh hai miền Nam Bắc đưa con người bải hoải lết lết tới đường cùng cuối bờ vực sâu. Những chiếc xe tăng ì ầm chạy trên các đại lộ chính, chở đầy bộ đội đầu đội nón cối, chân mang dép râu, cổ quàng khăn lau mặt, thân hình dắt đầy cành cây. Đoàn xe chôn vùi nền Đệ Nhị Cộng Hòa do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu bôn tẩu lánh cư và do ông Dương Văn Minh ngồi trên ngai vàng lãnh đạo chỉ có ba ngày!!!

    Quân Bắc Việt được sự hổ trợ tối đa của Nga và Tàu-cộng cung cấp đầy đủ đạn dược, súng ống và xe tăng. Trong khi miền Nam Việt Nam bị Mỹ hứa lèo hứa cuội, rồi trở mặt phản bội, lãnh đạm bỏ rơi. Mỹ từ chối hết thảy, kể cả chính phủ miền Nam chỉ xin chi viện 300 triệu đồng. Cũng không! Toàn Quân miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải tự anh hùng oai dũng kiên cường chiến đấu, quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng, trong sự cô độc, vô cùng đắng cay chua xót và tuyệt vọng dường bao!!! Những Người Lính dũng cảm ấy chưa hề buông súng bỏ cuộc. Họ không bao giờ phản bội dân tộc và cương quyết ở lại giữ gìn quê hương Việt Nam dấu yêu.

    Cho đến một *ngày thứ Tư: 30-04-1975: Họ phải cúi gầm đầu bật khóc; vì buộc lòng phải tuân phục thượng-lệnh. Đời sống ấy phơi bày cuốn phim cay nghiệt, có cảnh-tượng kém thanh-lịch, bóc trần những điều quá thật, làm tan nát đời nhau. Chẳng bao giờ xóa nhòa, tàn phai trong ký-ức mọi người. Tan hoang kinh khủng. Đau đớn tột độ! “Hạnh phúc Hòa Bình” đến, vội-vã chợt đi giật theo tấm áo đơn bạc. Lộ ra quá-khứ trần trụi. Hiện tại đọa-đày, tương lai đen tối mịt mù. Vẫn hay, vô cùng nghẹn ngào cay đắng!!! Bách niên thương hải biến vi tang điền!
    ***
    Tình HOÀI HƯƠNG
    *

    (*) - Nguồn TỪ > Wikipedia, & sưu tầm đó đây

    - Câu "Bách niên thương hải biến vi tang điền" là câu gồm 8 chữ, không phải là Thơ Đường Luật, có thể là loại Thơ Cổ Phong, nghĩa là thơ Cổ trước khi có Thơ Luật của Đời Đường ra đời. Cổ Phong có thể gồm thơ 3 chữ, 5 chữ, 6 và 8, không theo Luật Thi. Thơ Đường Luật thường gồm Thơ 5 Chữ và Thơ 7 Chữ theo Luật Bằng Trắc và Đối Ngẫu.

    Bốn cuốn sách tham khảo gồm: Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh.

    1. Tự điển Từ, & Ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân.

    2. Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trịnh Văn Thanh.

    3. Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang.

    4. Theo cuốn Tự Điển Truyện Kiều (trang 68) & cuốn Tự Điển Từ & Ngữ VN (trang 1797) thì đa phần giống nhau trong sự giải thích: "Thương hải biến vi tang điền, mà viết tắt là 'Thương hải tang điền" nghĩa đen là "Biển xanh biến thành ruộng dâu", nghĩa bóng là những cuộc thay đổi lớn lao. Nhưng không ghi xuất xứ điển này từ đâu ra.

    *5.- Theo cuốn Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang thì điển Thương Hải Tang Điền, xuất xứ từ Thần Tiên Truyện vào thời Đông Hán. Tiên nhân Vương Phương Bình xưa đỗ Hiếu Liêm, làm quan chức Trung Tán Đại Phu, rồi bỏ quan đi tu tiên đắc đạo, giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán), cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo Phương Bình rằng: "Tiếp thị dĩ lai, dĩ kiến Đông Hải tam vi tang điền." Nghĩa là: "Từ khi được tiếp hầu ông đến nay, tôi thấy bể Đông đã ba lần biến thành ruộng dâu."

    6.- Cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Văn Thanh nói giống như cuốn Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang, nhưng đơn giản hơn một chút. (*)

    *Tình HoàiHương


    Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-01-2021, 06:48 AM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  • #2
    Xin giải mã bài của Niên Trưởng Tình Hoài Hương thắc mắc tại sao vận nước của Việt Nam lại đen tối qua cái nhìn của Tiên Tri Nótradamus.
    Nostradamus (1503-1566) xử dụng ẩn ngữ trong 100 đoạn thơ 4 câu 10 chương, ghi sở kiến của ông trong tác phẩm Les Propheties –Tôi xin trích dẫn một đoạn để bàn chuyện đất nước với niên trưởng thưởng lãm cho vui, chớ không mục đích gì khác:

    Ðoạn 8/77:


    L’anteChrist trois bien tost annichilez,
    Vingt et sept ans sang durera sa guerre:
    Les heretiques morts, captifs exilez,

    Sang corps humain eau rougie greler terre.

    Qủi vương sẽ hủy hoại ba quốc gia,
    Cuộc chiến đẫm máu do hắn gây ra kéo dài 27 năm:
    Người phản động phải chết, kẻ bị bắt thì biệt xứ,
    Máu và xác người nhuộm đỏ nước và làm tê cóng đất.

    1. Antéchrist: Qủi vương

    Theo ngôn ngữ và niềm tin Tây phương, Christ có nghĩa Đấng Cứu Thế, Vị Cứu Tinh, mang bình an cho Con Người dương thế. Đối nghịch Christ là antéChrist, antiChrist là quỉ vương, tức những lãnh tụ đã gây ra thảm họa, phá làng phá nước… như Napoléon, Hitler, Hồ Chí Minh.

    2. Trois bien tost annichilez: Sớm hủy hoại ba quốc gia

    Nostradamus đã tiên báo rằng, Hồ Chí Minh sẽ là kẻ gieo tai họa, và sớm hủy họai ba quốc gia Việt - Miên - Lào.

    Theo cổ ngữ, annihilé nghĩa là đang có mà hóa thành không, tức bị tiêu diệt, bị hủy hoại, bị tàn phá. Có người cho rằng, trois chẳng những là ba, mà còn được hiểu là thứ ba. Hồ Chí Minh được cho là anteChrist thứ ba, vì trước đó đã có hai lãnh tụ khét tiếng Napoléon, và Hitler – vì tai họa xứng tầm vóc hủy diệt của qủi vương phải là cấp quốc gia, cấp nước.

    Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trong nhà tù cải tạo đã được đồng bào Việt Nam bàn luận và công nhận rằng, ông Hồ là anteChrist, cùng với tập đòan Cộng Sản ra sức đánh phá ba quốc gia Ðông Dương:Việt-Miên-Lào.

    3. Vingt et sept ans sang durera sa guerre: Cuộc chiến đẫm máu do Cuộc chiến 27 năm

    a. Cái mấu chốt đoạn 8/77 là con số 27 năm, chìa khóa giúp chúng ta nhận diện qủy vương.

    Ðang khi nhà giải sấm phương tây cho rằng cuộc chiến 27 năm sẽ xảy ra vào hậu bán thế kỷ 20, một thời điểm trước khi khởi đầu Kỷ Nguyên Mới. Nhưng thời gian gần đây khi thế kỷ 21 cận kề, vẫn chưa thấy có sự gì nghiệm ứng, cho nên phải dời ngày, J. C. de Fontbrune của Nostradamus để hy vọng có sự kiện xảy ra. Sở dĩ có việc này vì nhiều nhà giải sấm ít xét tới cuộc chiến tranh Việt Nam 27 năm.

    b. Do dấu chỉ trong đoạn sấm chúng ta liên tưởng tới cuộc chiến Việt Nam vừa qua trên quê hương, từ sự kiện Hồ Chí Minh tuyên bố lập Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, trên danh nghĩa gồm ba quốc gia Việt Nam, Ai Lao và Kampuchia vào năm 1930.

    Năm 1930, hay ít ra là vào năm 1945, cuộc chiến tranh tàn khốc ở Việt Nam luôn luôn được gọi là cuộc chiến chống Pháp do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nếu tính thời gian của cuộc chiến từ năm 1930, hay từ năm 1945, cho tới năm 1975 thì nó kéo dài từ 45 năm hay ít nhất là 30 năm. Ðây cũng chỉ là mốc lịch sử nhìn theo sự kiện vây bọc bởi yếu tố tuyên truyền xuyên tạc của phe thắng trận.

    Ðành rằng thắng là vua thua là giặc, nhưng Tiên Tri không nhìn vào lịch sử Việt Nam cận đại qua tuyên truyền của Cộng sản, mà Ngài đã căn cứ vào nội dung, vào nguyên cớ, vào chính nghĩa của chiến, đó là Cuộc Chiến Quốc Cộng 27 Năm.

    Cuộc chiến chống thực dân Pháp của người Việt Nam đã không chỉ khởi đầu từ khi Hồ Chí Minh lập Ðảng Cộng Sản kháng Pháp, mà đã có từ khi chiến thuyền của Pháp bắt đầu nã đạn đại bác vào Ðà Nẵng, năm 1847.

    Công cuộc kháng chiến chống Pháp để dành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước cũng không thể chấm dứt qua lời tuyên bố Hồ Chí Minh vào năm 1945… mà tiếp tục tới khi hiệp định ký kết giữa hai chính phủ Pháp và Ngô Ðình Diệm vào năm 1955. Mặc dù trước đó, tháng 3 năm 1946, Hồ Chí Minh ký hòa ước cho quân đội Pháp có quyền ở lại Việt Nam. Ðiều này chứng tỏ ông Hồ là người bán nước.

    Mặc dù Ðảng Cộng Sản lạm nhận và cướp công kháng chiến. Mặc dù Hồ Chí Minh hoạt đầu chính trị thì dưới cái nhìn của Tiên Tri, vai trò tác nhân chính yếu trong cuộc chiến chống thực dân Pháp qua biến cố 1945 vẫn là của Toàn Dân Việt Nam.

    Chúng ta không ai lại không thấy sức mạnh đích thực trong công cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp, chống Nhật ở giai đoạn 1948 tới 1955 là tinh thần, là tâm huyết, là vì Quốc Gia Dân Tộc của Toàn Dân Việt Nam. Sức mạnh này đã không thể, không hề phát sinh từ cuồng vọng thực hiện chủ nghĩa cộng sản tam vô như người Cộng sản rêu rao.

    Cộng sản giỏi dùng thủ đoạn lường lọc, đánh lận con đen, tráo trở và mạo mượn danh nghĩa “độc lập dân tộc, thống nhất đất nước” để cướp công kháng chiến của toàn dân, tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia… Cho nên sau những năm 1975 đến nay, hơn 30 năm Cộng Sản bị lột trần bộ mặt giả nhân gỉa nghĩa và mang lại hậu quả tranh dành quyền lực, tạo bất công xã hội, tham nhũng hối lộ, mua quan bán tước, lãng phí tài nguyên tạo nên cảnh dân đói nước nghèo. Việt Nam hôm nay lạc hậu chậm tiến, thua xa các nước trong vùng Thái Lan, Mã Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương, Phi Luật Tân, Ðại Hàn hay Nhật Bản về mọi phương diện trong cuộc sống con người; tai hại nhất là nền Văn Hóa Giáo Dục Việt Nam bị băng hoại.

    c. Cái nhìn của Nostradamus, dù ông Hồ và đảng Cộng sản có trí trá thì những gì lạm nhận lịch sử cũng chỉ kéo dài tới năm 1948.

    Năm 1948,những người Việt Nam chiến đấu cho đại nghĩa, vì quốc gia dân tộc đại diện cho toàn dân chống thực dân Pháp và chống Cộng đã chính thức thành lập một cơ cấu chính trị của một quốc gia độc lập và thống nhất (Tam Kỳ: Bắc-Trung-Nam) do Quốc Trưởng (Bảo Ðại), Thủ Tướng (Nguyễn Văn Xuân), Chính Phủ (Trung Ương Lâm Thời) và Hội Ðồng Quốc Gia (gồm đại diện các chính đảng và các giáo phái), Quốc Kỳ (Cờ Vàng 3 Sọc Ðỏ), Quốc Ca (Này công dân ơi…) với danh xưng Quốc Gia Việt Nam.

    Nhìn vào giai đoạn lịch sử, chúng ta tiếc rằng trong thời kỳ khai sinh Quốc Gia Việt Nam non trẻ ấy đã không được nhiều người biết đến vì dân chúng lúc đó bị phe Cộng tuyên truyền đánh lạc hướng.

    Nhưng không lọt qua con mắt tiên tri, Nostradamus cho rằng từ năm 1948 là thời điểm bắt đầu Chiến Tranh Quốc Cộng 27 Năm, vì từ năm đó cuộc chiến mang Tinh Thần Quốc Gia do Quốc Trưởng Bảo Ðại cầm quyền và chính thức ra mặt đối kháng với tập đoàn Cộng Sản Tam Vô.

    Cũng theo tiên tri thì năm 1948 là khởi đầu cuộc chiến mang chính nghĩavà chiến tuyến rõ ràng giữa Quốc Gia Việt Nam và bọn Phiến Loạn Tam Vô, tay sai Đế Quốc Cộng Sản. Cuộc chiến kéo dài từ 1948 cho 1975 là đúng 27 năm.

    Bởi thế nên chúng ta mới có câu “Chánh thắng tà,” theo như lời dặn giữ nước của quốc sư Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Ðại Cáo:“Ðem chí nhân mà thay cường bạo, lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn” là những điều ở nơi giặc Cộng tam vô không thể có, không thể đổi, không thể tráo trở.

    4. Do qủy vương gây ra

    a. Tiên tri Nostradamus nhìn nhận rằng cuộc chiến đẫm máu của Việt Nam là do qủi vương Hồ Chí Minh cố tình tạo ra, chớ không cần thiết, không tình cờ, không do nhu cầu hay tình thế nào đòi hỏi phải có chiến tranh.

    Nhìn lại các nước đồng cảnh ngộ, tình hình chính trị thế giới xung quanh thời điểm 1948 – 1975, nếu ba nước Ðông Dương không gặp nạn qủy vương và tập đoàn đầu trâu mặt ngựa thì đất nước và đồng bào của chúng ta không bị tàn phá và thoái hóa, thì không có cảnh nghèo nàn và chia rẽ dân tộc một cách sâu đậm và bi thảm nặng nề như ngày hôm nay.

    Nếu trào lưu tiến bộ bình thường của thế giới,nếu những người vì quốc gia dân tộc không bị cướp công, không bị mưu hại vànếunước ta không có quốc nạn Cộng Sản, một bọn người chỉ biết cúi đầu, gục mặt tuân hành chính sách bành trướng bá quyền của quan thày Nga Tàu, thì việc giải thoát đất nước khỏi ách thực dân Pháp đâu đến nỗi phải xử dụng bạo lực gây chiến tranh chết chóc. Đau thương khốn cùng, hơn 4 triệu sinh linh đồng bào hai miền Nam Bắc Việt Nam tử nạn. Lê Duẫn huyênh hoang tuyên bố: “Chỉ có bạo lực mới là đường thống nhất đất nước...” Tới hôm nay, sau 30 năm tuy có thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất nhân tâm con người. Hơn 80 triệu dân lành đành ngậm đắng nuốt cay trước sự cai trị bạo tàn hà khắc của tập đoàn Cộng Sản.

    Trên thực tế người Pháp đồng ý trao trả độc lập cho nhân dân Việt Nam, nhưng Hồ Chí Minh lại theo lệnh Nga Tàu quyết buộc Pháp phải trao trả Việt Nam cho đế quốc cộng sản và gây ra cuộc chiến.

    b. Từ năm 1948 -1975, bọn qủi vương và đầu trâu mặt ngựa ngụy tạo chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” và xâm chiếm miền Nam Việt Nam tự do mà dâng cho đế quốc Cộng Sản, tàn phá hủy hoại quê hương, chém giết sát hại bao triệu đồng bào vô tội. Chúng xử dụng bạo lực và manh nha thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam từ nhũng năm 1959. Chúng đã khủng bố, phá hoại cuộc sống tự do hạnh phúc của dân chúng Miền Nam, đặt mìn vào cầu cống, khách sạn, pháo kích vào nhà thờ, chùa chiền, trường học, bệnh viện và tàn sát lương dân. Bởi đó trước sự leo thang chiến tranh và bành trướng lực lượng cố vấn Nga Tàu của Cộng Sản Bắc Việt, thì tới năm 1961 Hoa Kỳ phải cử cố vấn quân sự đến giúp Việt Nam Cộng Hòa, và phe Cộng lại viện dẫn lý do này mà rêu rao chiêu bài chống Mỹ cứu nước.

    Nếu Việt Cộng thành tâm tin tưởng rằng sự hiện diện của người Mỹ là tai hại của dân Việt và toàn dân có nhiệm vụ hy sinh cho tới giọt máu cuối cùng để đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào… thì xin hỏi tại sao chỉ có vài ba ngày sau tàn cuộc chiến 1975, thì bọn chúng bắt đầu cầu khẩn xin Mỹ trở lại Việt Nam (xin bang giao với Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 6 năm 1975).

    Với những chiêu bài ngụy tạo “giải phóng dân tộc,” “bài phong đả thực,” “tranh thủ tự do,” “chống Mỹ cứu nước” chỉ là mưu đồ độc hại để cho qủi vương Hồ Chí Minh và đảng đầu trâu mặt ngựa gây ra cuộc chiến “huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt.”

    5. Les heretiques morts: Ðẫm máu, người phản động phải chết

    Cuộc chiến nào mà chẳng đẫm máu, phải chăng thưa ông Nostradamus, nhưng cuộc chiến do Cộng Sản chủ xướng, thì tàn bạo khốc liệt đẫm máu gấp bội lần, khiến cho–

    đất nước điêu linh
    cỏ cây sơ xác
    người ở lại đắng cay sầu muộn
    kẻ ra đi tức tưởi thê lương
    bậc hiền tài chịu tù đày bạc đãi
    đứa vô luân đắc thắng huyênh hoang
    những bầy trí quẩn lòng tham
    xa nguồn lạc gốc
    dựa ác nhân hại chính nghĩa luân thường
    thế cho nên
    non sông châu mày
    kiếp nạn
    Tổ Tiên tiền bối
    trách mắng muộn phiền…

    đến nỗi ông phải liệt kê thảm trạng Chiến Tranh Việt Nam:

    a. Chữ heretiques chỉ người chống đối, giáo điều, lạc đạo, phản giáo, cộng sản giáo điều – đã giết những người chúng cho rằng phản giáo, đi ngược đường lối xã hội chủ nghĩa theo phương châm "Thà giết lầm hơn tha lầm."

    Qủy vương chủ trương biến cả nước thành nhà tù, biến toàn dân thành nô lệ: tự do bị cướp đoạt, nhân quyền bị chà đạp, nền dân chủ truyền thống bị thủ tiêu. Lãnh thổ Việt Nambiếnthành bàn đạp cho gót giầy chinh phục của chủ nghĩa bành trướng Ðế Quốc Ðỏ. Tà thuyết duy vật hủy hoại trầm trọng nền giáo dục văn minh Việt tộc, phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của của tổ quốc và gía trị đạo đức của nền văn hóa cổ truyền: Văn Hóa Tiên Rồng.

    Qủa thật không còn từ ngữ nào chính xác hơn heretiques của Nostradamus để diễn tả bọn người cuồng tín, cuồng nhiệt với tà thuyết duy vật biện chứng pháp. CSVN vâng theo mệnh lệnh quan thày Nga Tàu.

    b. Trên khắp nẻo đường đất nước từ tỉnh thành thịnh vượng của Miền Nam Việt Nam tự do với cuộc sống ấm no hạnh phúc… cho tới vùng thôn quê xa xôi hẻo lánh đồng lúa vàng bạt ngàn cho dân an hưởng trong cuộc sống gạo trắng trăng thanh… Nhưng, Việt Cộng tràn về, thiêu hủy tàn phá đời sống ấm no sung túc ấy của toàn dân, Tố Hữu cổ võ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam:

    Cứ xốc tới, cứ chảy máu, cứ rơi đầu
    Mỗi xác thây sẽ là một nhịp cầu
    Cho ta bước tới chân trời khát vọng

    Khổ nạn cho bao triệu lương dân đang sống hạnh phúc trong mái ấm gia đình bên cạnh người thân, vợ hiền con thảo… thì bỗng dưng bị Việt Cộng bắt mang đi cải tạo, đấu tố, chặt đầu trong đêm tối, ra bờ đìa mò tôm, hay đi chầu giun. Xin hỏi có còn gì cái gọi là giải phóng, là công lý?

    c. Việt Cộng khép tội cho chúng ta là ngoan cố, là chống đối, là phản động và bắt chúng ta ta mang ra chặt đầu không chút lý lẽ, không gợn từ tâm, không lời giải thích.

    d. Nostradamus dùng một lời ngắn gọn và chính xác Les heretiques morts để đi đến kết luận trong một tình huống phũ phàng: Phản động! Chết! Tiếng thét ấy làm cho người viết chết lặng khi nhớ lại khúc nhôi bao tháng năm cùng cực trong tù cải tạo, nhìn bao cảnh đồng đội chịu thảm sát oan khiên. Tiếng chết thét lên… chen lẫn tiếng cười man rợ của bọn cán bộ quản giáo Việt Cộng lôi đầu sĩ quan cải tạo ra chặt dưới lưỡi mã tấu oan khiên.

    6. Captifs exilez: Kẻ bị bắt thì biệt xứ

    Họ bị bắt chớ không tự nguyện, bị cưỡng bách chớ không vì lý tưởng vô sản mà dấn thân phục vụ qủy vương.

    a. Hình ảnh dân công đạo binh đang khiêng vác, tiếp tế cho bọn qủy đỏ trên đường trường Trường Sơn. Hàng chục vạn dân bỗng nhiên bị cưỡng bức đi B ăn đói nhịn khát và khổ sở hơn thân trâu ngựa… Từng đoàn người ốm yếu xanh xao, lam lũ lê đôi chân mòn trên dốc đá, thất thểu khiêng những thùng súng đạn do quan thày Nga Tàu sản xuất phục vụ chiến trường, tiến vào chốn hiểm nguy rừng thiêng nước độc… Ra đi không hẹn ngày về, yếu mệt thì bị đạp qua lề đường nằm chờ thần chết, và không ai chăm sóc thuốc men. Thanh niên Miền Bắc chịu khốn khổ hơn cả phạm nhân hình phạt khổ sai biệt xứ.

    b. Có ai thấu cho nỗi thống khổ của hàng vạn thiếu nữ Việt Nam bị cưỡng bách đi làm hộ lý, nô lệ tình dục cho loài qủi đỏ cái mà chúng gọi là công tác phục vụ chiến trường. Tiên Tri Nostradamus phải chăng vì qúa đau lòng cho dân tộc Việt Nam mà ngậm ngùi đặt bút viết ra giòng chữ này?

    c.Hình ảnh người tù cải tạo của những sĩ quan quân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa bị Cộng Sản phản bội, lường gạt bởi chính sách hòa hợp hòa giải 7 điểm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam công bố trước ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ðây là một chính sách lòe bịp tù hàng binh một cách trắng trợn, vô nhân đạo mà trên thế giới này chưa một lần xảy ra.

    Theo lệnh buông súng của Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh, bàn giao đơn vị, trở về xum họp với gia đình và trở thành công dân trong xã hội mới. Ôi nghe sao thật êm tai, nhưng vừa tiếp thu xong, chưa kịp về nhà là Việt Cộng trở mặt ra lệnh tập trung học tập cải tạo.

    Trình diện Ban Quân Quản kê khai lý lịch… bọn chúng nhón từng sĩ quan đưa vào khám kín nhốt lại, chờ trời tối đóng cùm giải lên xe bít bùng di chuyển về khám lớn. Khoảng tháng sau, khi đủ túc số thì chúng mở khóa học gọi là ba bài khai tâm với mục đích thanh lọc và chuyển về trại tù binh vốn sẵn trong bưng nơi rừng thiêng nước độc mà tra tấn hành hạ, lao động khổ sai biệt xứ. Không biết bao nấm mồ tù hàng binh cải tạo đã chôn sống xung quanh nhà tù.

    7. Sang corps humain eau rougie greler terre: Máu và xác người nhuộm đỏ nước và làm tê cóng đất

    Nhìn lại chiến tranh Việt Nam, Nostradamus bật khóc trước cảnh đau thương hãi hùng. Hơn bốn triệu sinh linh bị tên qủy vương và bọn đầu trâu mặt ngựa tàn sát. Những vụ đấu tố thanh trừng, những vụ thủ tiêu ám sát, những vụ chôn sống tập thể, những vụ tập trung cải tạo… kể sao cho hết tội lỗi của Việt Cộng. Có cảnh nào kinh hoàng rùng rợn hơn trận biển người? Hàng ngàn vạn dân lành, hầu hết chỉ là thiếu nhi và ông gìa bà lão bị bọn qủi đỏ đẩy ra làm bia đỡ đạn, mà đạp lên bãi mìn hay tiến vào chốn trăm ngàn họng súng nổ vang?

    Nostradamus, còn có chữ nào khác để diễn tả cuộc chiến VN nữa không? Máu dân Việt phải đổ ra, lênh láng tràn ngập nhuộm đỏ cả nước! Xác dân Việt đã lầy đất, khí lạnh của xác làm tê cóng cả mặt đất.

    Nostradamus, sao không nói thêm về nước mắt? Nước mắt của ông, nước mắt của tôi, và của bao chục triệu dân Việt đầm đìa suốt bao chục năm. Nước mắt khóc mẹ khóc cha, nước mắt mất con mất chồng, nước mắt trẻ thơ côi cút, nước mắt đứt ruột nát lòng của triệu con người vô tội đang bị xác thân tàn phế, tâm thần rối loạn, gia đình tan nát, nước mắt tức tửi cho thân phận quê hương dân tộc tôi. Nước mắt đau thương ấy đang còn kéo dài tới nay mà còn khổ lụy, gông cùm xiềng xích của qủi vương và bọn đầu trâu mặt ngựa.

    Nostradamus, sao không nói thêm về lửa, ngọn lửa hỏa ngục đã theo bọn qủy đỏ tràn về thiêu đốt biết bao nhà cửa ruộng vườn, trường học bệnh viện, làng thôn phố xá, đền đài lăng miếu Việt Nam?

    Vâng, ngôn ngữ loài người cũng có giới hạn, làm sao mà diễn tả hết nhưng nỗi khổ sở đắng cay của dân tộc tôi phải chịu qua bạo nghịch của loài qủy đỏ. Qủy vương hủy hoại ba quốc gia Hồ Chí Minh?
    Last edited by Phạm Văn Bản; 04-28-2021, 07:58 PM.

    Comment


    • #3
      22090010_2001823236761856_3771729930263551993_n.jpg
      If 40 years ago we crossed the sea in search of freedom in torn boats and could be engulfed in terrible storms,
      today we can stand on a luxury yacht to see the world at peace in summer afternoon sun.
      Last edited by Phạm Văn Bản; 04-28-2021, 11:13 PM.

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X